CON ĐƯỜNG LÀM CHỦ SỐ
PHẬN
Con người chịu
đựng nhiều nỗi tai ương và bệnh hoạn, coi những việc bất đắc ý là số phận của
mình. Trong lịch sử ý thức hệ nhân loại, nhiều bậc vĩ nhân đã mở đường cứu giải
số phận con người, bằng nhiều cách khác nhau.
Con đường Minh triết lâu đời nhất là phát triển Tâm thức tìm hiểu quy luật tự nhiên
để sống thuận tự nhiên. Minh triết là sự
sáng suốt hiểu biết đến cái lẽ tận cùng của sự việc, biết nguồn gốc của mọi hiện
tượng xảy ra. Minh triết có từ buổi bình minh của loài người. Tổ tiên
chúng ta đã trải qua hàng triệu năm quan sát khám phá các quy luật tự nhiên,
xây dựng nền minh triết về sự sống, phát minh chữ viết để truyền lại minh triết
cho con cháu biết. Nhận thức đầu tiên được ghi chép trong bộ cổ kinh xa xưa nhất
là Rig Veda, 5000 năm trước. Minh triết cổ Phương Đông đã phản ánh Cội nguồn sự
sống, cái nền tảng tạo ra vận mệnh sự
sống của chúng ta là năng lượng gốc Prana, hay Điển thanh vũ trụ, là cái đã tạo dựng vũ trụ, chuyển hoán mọi vật
theo quy luật tự nhiên, trong đó có loài người. Cho đến nay vẫn là nhận thức suất sắc nhất, là
kim chỉ nam của mọi thời đại. Muốn làm chủ số phận phải biết cách làm chủ năng
lượng Prana.
Prana là
danh từ Phạn ngữ, có nghĩa là Sinh lực hay Sức sống. Pra có nghĩa là “Đứng đầu,
đầu tiên”. Na nghĩa là “nhỏ nhất”. Đầu tiên của vũ trụ chỉ có các hạt ánh
sáng Prana là năng lượng thanh tịnh, tạo ra Tinh thần và sự Vận động trong
vũ trụ. “Ai làm chủ Prana sẽ làm chủ số
phận mình”. (Prana kỳ diệu với Yoga: Sự thăng hoa và Siêu phàm
của nhân loại-Almanach Những nền văn minh thế giới–NXB VHTT 1998).
Trên con đường
cứu khổ phần lớn các mối đạo đều khẳng định cứu cánh nhân loại là ánh
sáng thanh tịnh bao trùm khắp vũ trụ. Khái niệm này cùng bản chất Prana, chỉ khác nhau tên gọi và phương pháp
tu luyện.
Gần 3000 năm
sau xuất hiện Đạo Phật. Đức Phật Thích Ca nói về Phật A Di Đà là Ánh sáng vô lượng
quang Vô lượng thọ, tỏa chiếu khắp mọi phương mà không bị ngăn cách. Đây là
Năng lượng thanh tịnh Prana. Có phép tu cho các Phật tử hướng về sự thanh tịnh,
bằng phương pháp giáo dục Từ Bi Hỷ Xả...
và niệm Phật A Di Đà cứu khổ và giúp siêu thoát về Niết bàn.
Sau hơn 500
năm nữa ra đời Đạo Thiên Chúa. Đức Chúa Giêsu nói về Thượng Đế, Tạo hóa, Đức
Chúa Trời, là ánh sáng bàng bạc khắp mọi nơi, ban rải tình thương vô hạn cứu khổ
nhân loại. Đây là Năng lượng thanh tịnh Prana. Các con chiên cầu khấn Đức Chúa cứu
khổ, và đón về Thiên đường. Nhiều dòng tu phát triển tình thương vô giới hạn
noi theo dòng năng lượng tình thương của Chúa ban rải khắp nơi. Tạo nên văn hóa
Phương Tây.
Sau cùng xuất
hiện nền Khoa học hiện đại, không dùng minh triết Phương Đông, Phương Tây, mà nhận
thức thế giới bằng máy móc, kính thiên văn nhân tạo để tìm kiếm Năng lượng gốc,
cho đến nay không thể tìm ra.
Cái đích cuối cùng của Khoa học hay Tôn giáo đều
giống nhau, đi tìm kiếm Năng lượng gốc. Chỉ khác nhau về tên gọi, phương pháp
tìm kiếm. Tùy căn cơ ai có duyên phù hợp nơi nào thì áp dụng. Ai tìm được
trước thì hưởng cứu cánh trước. Đã sinh sống trong vũ trụ này không có ai đứng
ngoài Cội nguồn Prana.
Tính khách quan của minh triết Phương Đông là nhận thức thế giới tự nhiên, không phục vụ
riêng cho giai cấp nào hay một thánh nhân nào. Nêu rõ bản chất tận
cùng của mọi sự vật hiện tượng đều xuất phát từ Năng lượng. Năng
lượng là căn nguyên cốt lõi phát sinh mọi vấn đề. Năng lượng xấu gọi ô trược
sẽ tạo ra sự việc xấu. Năng lượng tốt tạo ra sự việc tốt. Đỉnh cao là năng lượng
gốc, tạo nên sự tiến hóa thúc đẩy sự phát triển tốt đẹp đúng quy luật Tự nhiên.
Từ vũ trụ hoang sơ ban đầu là không khí đã tiến hóa thành vũ trụ tươi đẹp rộng
lớn trên sức tưởng tượng của con người. Năng lượng gốc là phép màu của thế giới
tự nhiên, tạo ra sự thăng hoa và siêu phàm của nhân loại. Người Minh triết
tu luyện Prana bằng cách rèn luyện năng lượng sạch “khử trược lưu thanh”, là mục
đích nhất quán của các nhà hiền triết phải cải tạo bản thân, không trông chờ
bên ngoài.
Mấy ngàn năm sau ra đời các Tôn giáo. Mỗi Tôn
giáo có phương pháp tu hành khác nhau, chủ yếu là cách cầu xin phép màu nhiệm,
giáo dục tình yêu thương, và tôn vinh Đấng Sáng Tạo, tôn vinh vị Giáo chủ. Mỗi
Tôn giáo có quan niệm khác biệt, thậm chí trái ngược, mâu thuẫn, sinh ra đổ
máu. Minh triết và Tôn giáo có quan niệm thống nhất về Đấng sáng tạo, tên gọi
có khác nhau nhưng cùng một bản chất, có thể liên hiệp lại.
Các thành tựu
khoa học vật lý hầu hết tạo ra hậu quả ô nhiễm môi trường. Nhiều nỗ lực nghiên cứu
không thể tìm ra năng lượng gốc. Năng lượng nguyên tử, quang tử là hiện thân sức mạnh
của Khoa học, cũng không giải quyết được bế tắc của nhân loại.
Các nhà hiền
triết Phương Đông đã cống hiến cho Nhân loại nhận thức siêu việt về Năng lượng
gốc, xứng đáng là đỉnh cao của Khoa học Tâm linh, giải quyết những bế tắc ô nhiễm
mà khoa học không làm được.
Prana
là sức mạnh bí ẩn Càn Khôn vũ trụ. Vì khó nhập định nên ít người thành
công mở Trí Huệ Prana, rồi thất truyền. Người Phương Đông đã phát triển tu luyện
theo chiều hướng thần quyền. Dùng pháp thuật thần thông để nắm giữ quyền
thống trị, để hưởng lợi và trấn áp người khác. Viên ngọc báu Prana bị chìm vào huyền bí Phương Đông.
Đức Phật Thích Ca Nâu Ni ra đời ở Phương Đông, nhưng không theo trào lưu
thần quyền, mà chỉ ra nguyên nhân đau khổ do 5 loại ô trược (ngũ trược), và tuyên thuyết
với ô trược. Đức Phật đã nói lời cuối cùng: “Tham ái là nguyên nhân của tất cả
bất hạnh. Mọi vật sớm muộn sẽ biến đổi, đừng nên bám víu vào bất cứ cái gì. Tốt
hơn hết nên dốc lòng thanh lọc Tâm Trí. Hãy tự mình tinh tấn để đạt được giải
thoát. Các vị Như Lai chỉ là người chỉ đường”. Chủ thuyết An lạc của Đạo Phật
giúp con người dịu bớt sự hung dữ, bớt thù hận, là đóng góp lớn lao của Đạo Phật cho nền Hòa Bình thế
giới. Nếu không có ngọn cờ “TỪ, BI, HỶ, XẢ” của Đạo Phật, con người có thể giận
dữ đánh nhau đến người cuối cùng, vì cái dục vọng tham tàn rất lớn.
Ô trược là vấn đề bí hiểm không diễn tả hết bằng
từ ngữ, nên Đức Phật truyền đạt bằng con đường Tâm truyền: “Những điều ta đã
nói như nắm lá trong bàn tay, điều ta chưa nói nhiều như lá trên rừng cây”. Và
đưa ra một bông hoa sen, im lặng trao cho Ma Ha Ca Diếp. Tức là Đức Phật đã ngụ
ý truyền trao một bản kinh Vô
ngôn, truyền đi mãi mãi từng giây phút, ai hiểu sẽ nhận ra, nhưng không bao
giờ có với người không ngộ ra. Trong khi đó kinh sách Phật được ghi chép
sau 218 năm Phật nhập diệt, không tránh khỏi tam sao thất bản (kinh Tăng chi bộ,
trang 95), nên nhiều Phật tử không hiểu rằng cuộc đấu tranh với ô trược là mục
tiêu giải khổ của Đạo Phật.
Trong Kinh Thánh, sứ đồ Phao Lô có đề cập chính xác sự chi phối ô trược nghiệp
lực: "Tôi cảm biết trong chi thể
mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu
tù cho luật của tội lỗi, tức là luật trong chi thể tôi vậy. Khốn nạn cho tôi. Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi
thân thể hay chết này ? Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Giêsu là
Chúa chúng ta"... Ngày phán sử cuối cùng là có thật, là ngày ô
trược phán sử người nuôi nó phải trả giá bằng nỗi đau đớn bệnh tật, có thể mê
man bất tỉnh trước khi rời bỏ cõi đời.
Tính người cao ngạo, tham lam, nói dối, tức giận, độc ác, ganh tỵ, mưu mô…đã sinh ra thế
giới ô trược.
Tính Chúa Phật là thanh tịnh, yêu thương vô bờ
bến. Chúa và Phật là các bậc Vĩ nhân có trí tuệ cao siêu, đến với thế gian này
chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh để giúp đỡ nhân loại cách tu sửa giải nghiệp
ác.
Nhưng lòng tham con người quá mạnh, chỉ muốn
Chúa Phật phù hộ phép nhiệm màu cho nhiều tiền bạc, ngôi vị cao, mà không chịu
từ bỏ ô trược. Không chặn đứng được ô trược, thì sự cứu giải còn xa vời vợi.
Vũ trụ còn muôn vàn bí mật chỉ có Tạo hóa
sinh ra mới biết. Các bậc Vĩ nhân chỉ giác ngộ được một phần Chân lý, không ai
biết được tất cả như Tạo hóa. Chúa Giê su biết một phần Chân lý mà Chúa đã nhận
được. Phật Thích Ca biết một phần Chân lý mà Phật nhận được. Ai cũng đúng, và có
thể bổ xung lẫn nhau.
Song tình trạng cuồng tín một người đã chia rẽ
thế giới thành nhiều nhóm tranh chấp đúng sai, sinh ra đố kị, thù hằn nhau. Nặng
hơn thì khủng bố, đổ máu, chiến tranh. Điều đó trái với tôn chỉ yêu thương mọi
người mà Chúa Phật đã nêu ra.
Thế giới 80% theo Tôn giáo, nhưng khắp thế
giới dùng hóa học, phóng xạ, nguyên tử, sóng wifi phá hỏng môi trường. Thiên
nhiên là cánh tay Thượng Đế chăm sóc con người. Đánh vào môi trường là đánh vào
Thượng Đế. Việc cầu xin phép màu nhiệm Thượng Đế che chở con người liệu có
thoát khỏi diệt vong không ? Người bảo vệ môi trường chính là bậc Thánh nhân
cứu thế. Đánh mất môi trường sạch là mất cả thế giới.
Đức Phật Di Lạc đã khai sáng con đường ĐẠO
BÊN TRONG cơ thể, để tiếp dẫn Prana, giải ô trược nghiệp lực. Phải thay đổi tâm
thức mới kịp cơ chuyển thế do Tạo Hóa khởi động cuộc Đại sàng lọc chấm dứt ô nhiễm,
bảo vệ trật tự vũ trụ, và mở đường cứu vớt nhân loại đang chìm trong biển
trược.
Người minh triết biết lắng nghe tất cả các bậc
vĩ nhân, kính trọng Tạo hóa vĩ đại, và tổ tiên của mình. Vì thế người minh
triết biết sửa lỗi
rất nhanh, họ không cuồng tín, không tranh chấp giai cấp hay tôn giáo. Họ
đấu tranh với chính bản thân để khử trược lưu thanh. Cơ thể là bộ máy siêu việt của Tạo hóa, cần được quét dọn sạch sẽ để trở
thành đền đài thiêng liêng của bạn. Chiến thắng bản thân là chiến thắng Vinh
quang nhất. Họ có đủ nội lực để vượt qua mọi cuộc khủng hoảng.